283. “Vanaṃ chindatha mā rukkhaṃ Vanato jāyati bhayaṃ Chetvā vanañ ca vanathañ ca Nibbanā hotha bhikkhavo”. | "Đốn rừng không đốn cây Từ rừng, sinh sợ hãi; Đốn rừng và ái dục, Tỷ-kheo hãy tịch tịnh." |
284. “Yāvaṃ hi vanatho na chijjati Aṇumatto’pi narassa nārisū, Paṭibaddhamano va tāva so Vaccho khīrapako’va mātari”. | "Khi nào chưa cắt tiệt, Ái dục giữa gái trai, Tâm ý vẫn buộc ràng, Như bò con vú mẹ." |
Pháp Cú nầy Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài ngự tại Jetavana, đề cập đến nhiều vị Tỳ khưu già.
Tương truyền rằng: Trong thời gian còn là cư sĩ, các vị ấy là những Trưởng giả
trong thành Sāvatthī thuộc hạng cự phú. Là những bạn thân, họ thường rủ nhau đi làm
phước và nghe Đức Bổn Sư thuyết pháp. Rồi họ tự hỏi lẫn nhau rằng: “Chúng ta đã
già rồi. Chúng ta còn nán lại nơi nhà làm gì nữa?”.
Sau khi xuất gia với Đức Bổn Sư, vì tuổi già nên họ không thể học thuộc lòng
Pháp thuyết. Do đó họ cho cất một thảo am, ở sát ranh chùa rối sống chung ở đó. Khi
đi trì bình xong, họ ghé qua nhà để vợ con họ thêm vật thực mà độ.
Trong nhóm các vị Sư ấy, có một bà vợ cũ của một vị, có tên là Madhurapanikā
(Mādhurapacikā) (Bàn tay thiện xảo), là người hộ độ cho tất cả nhóm. Cho nên các vị
ấy thường mang vật thực khất thực được đến nhà bà mà ngồi độ, và bà tùy tiện nấu
nướng thêm canh với thức ăn vào vật thực các vị ấy.
Ít lâu sau, bà lâm trọng bệnh và mệnh chung. Khi ấy các vị Sư già ấy ngồi tụ hội
lại cùng nhau tại thảo am, ôm cổ nhau mà khóc than, kể lể rằng:
- Bà tín nữ có tay thiện xảo nay mất rồi.
Chư Tỳ khưu khắp nơi đi đến hỏi thăm rằng:
- Có việc chi thế, nầy các hiền giả?
- Bạch các Ngài! Bà vợ cũ của bạn chúng tôi đã mất rồi. Một tay bà đã hộ độ
chúng tôi thật nhiều. Nay bà mất đi, chúng tôi tìm đâu ra được một bà hộ tăng như thế
đó nữa. Do đó, chúng tôi khóc.
Chư Tỳ khưu đem việc nầy ra thảo luận tại Giảng đường. Đức Thế Tôn ngự đến
phán hỏi rằng:
- Nầy các Tỳ khưu! Hôm nay các thầy tụ hội thảo luận việc chi vậy?
- Bạch Ngài, việc như thế… như thế…
- Nầy các Tỳ khưu! Không phải bây giờ, mà trước kia bà ấy là một con quạ mái.
Một hôm đi kiếm ăn dọc bờ biển, bị một lượn sóng kéo lôi xuống biển mà chết. Các vị
Tỳ khưu nầy khi ấy là những con quạ trống, chúng cũng đã từng khóc than trước cái
chết của con quạ mái, thở than cùng nhau rằng: “Chúng ta sẽ vớt nàng lên”. Rồi
chúng dùng mỏ định rút hết nước biển lớn, nhưng chỉ nhọc công vô ích.
Nói rồi, Ngài nói lên kệ ngôn rằng:
“Api na bahukā santā
Mukhañca Parisassati
Cramāna na pārema
Pūrateva mahodathati”.
“Quai hàm ta đã mỏi
Miệng mồm ta đã khô
Ta không tát vơi nước
Biển lớn lại đầy tràn”.
Sau khi thuật xong Bổn sanh con quạ, Đức Thế Tôn gọi chư Tỳ khưu già đến
bảo rằng:
- Nầy các Tỳ khưu! Sở dĩ các thầy gặp phải khổ nầy là tại vì khu rừng tham, sân,
si. Phải đốn tuyệt khu rừng ấy đi thì các thầy sẽ giải thoát khổ.
Rồi Ngài nói lên kệ ngôn rằng:
283. “Vanaṃ chindatha mā rukkhaṃ Vanato jāyati bhayaṃ Chetvā vanañ ca vanathañ ca Nibbanā hotha bhikkhavo”. | "Đốn rừng không đốn cây Từ rừng, sinh sợ hãi; Đốn rừng và ái dục, Tỷ-kheo hãy tịch tịnh." |
284. “Yāvaṃ hi vanatho na chijjati Aṇumatto’pi narassa nārisū, Paṭibaddhamano va tāva so Vaccho khīrapako’va mātari”. | "Khi nào chưa cắt tiệt, Ái dục giữa gái trai, Tâm ý vẫn buộc ràng, Như bò con vú mẹ." |
Comments