top of page
Ảnh của tác giảKinh Pháp Cú

Tích Truyện Kinh Pháp Cú 150 - TỲ KHEO NI SẮC NAN ĐÀ

Đã cập nhật: 13 thg 7




“Aṭṭhīnaṃ nagaraṃ kataṃ, Maṃsalohitalepanaṃ; Yattha jarā ca maccu ca, Māno makkho ca ohito”.

Thành này làm bằng xương, Quét tô bằng thịt máu, Ở đây già và chết, Mạn, lừa đảo chất chứa.


Kệ Pháp Cú này, Đức Bổn Sư thuyết lên khi ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Tỳ Kheo Ni Rūpanandā (Sắc Nan Đà), nguyên là một hoa hậu ở Ấn Độ.

Tương truyền rằng: Ngày nọ, cô ấy nghĩ rằng:

- Anh cả ta đã từ khước vương vị mà đi xuất gia rồi, thành một vị Phật, là bậc

Tối Thượng Nhân trong cõi thế, con trai Ngài là Thái tử Rāhula (Ra Hầu La) cũng là

bậc xuất gia trong Giáo Pháp của Đức Thế Tôn. Ở trong một gia đình có bấy nhiêu

quyến thuộc đã xuất gia như thế, ta sẽ làm gì bây giờ? Ta sẽ xuất gia cho rồi!

Cô bèn đi đến tịnh xá Tỳ khưu Ni mà xuất gia, vì tình yêu thương quyến thuộc,

chứ không phải do đức tin. Cô là người có nhan sắc tuyệt đẹp, do đó được mệnh danh

là Sắc Nan Đà, nghĩa là phụ nữ ưa thích sắc đẹp (Sắc Khánh Hỷ - Rūpanandā).

Cô nghe đồn Đức Bổn Sư thuyết pháp dạy rằng: “Sắc là Vô thường, là Khổ não,

là Vô ngã. Thọ... Tưởng... Hành... Thức... là Vô thường, là Khổ não, là Vô ngã”, nên

tự nghĩ: “Các sắc đáng mến yêu, đáng vui thích, đáng hoan hỷ như thế mà Ngài lại

khinh chê, bài bác!”. Do đó, cô không bao giờ đến giáp mặt Đức Bổn Sư.

Bấy giờ, thị dân ở thành Sāvatthī (Xá Vệ), vào ngày Uposatha (Bố Tát), từ sáng

sớm đã cúng dường Trai Tăng và Thọ Giới Bát Quan, buổi chiều họ khoác y sạch sẽ,

tay mang lễ vật, nhất là hương và tràng hoa, tập họp tại Kỳ Viên nghe Pháp. Nghe

Pháp rồi, họ trở vào thành, vừa đi vừa đàm luận về Ân đức của Bậc Đạo Sư.

Quả thật trong bốn hạng chúng sanh sống chung trên thế gian này, ít ai tiếp xúc

với Đức Bổn Sư mà không phát sanh đức tin trong sạch. Bốn hạng chúng sanh ấy là:

1- Những người thích sắc tướng (Rūpappamāṇikā) phát tâm trong sạch khi thấy

kim thân có màu vàng ròng tinh anh thanh tịnh cùng với 32 tướng tốt và 80 tướng phụ

của Ngài.

2- Những người thích âm thinh (Ghosappamāṇikā) phát tâm trong sạch khi nghe

âm thanh điêu luyện của tiếng Ngài thuyết Pháp. Đây là hạng chúng sanh đã từng

nghe Pháp từ các vị Phật quá khứ hoặc các Bậc Đại nhân Bồ Tát thuyết giảng trong

quá khứ và trong hiện tại, lời giảng Pháp của Đấng Như Lai hội đủ tám chi phần

Thánh Đạo.

3- Những người thích sự khổ hạnh (Lūkhappamāṇikā), thì phát tâm trong sạch vì

thấy Ngài hành Đầu Đà, nhất là đắp y phấn tảo (Cīvarādilūkhataṃ).



4- Những người thích Pháp (Dhammappamāṇikā), thì phát tâm trong sạch khi so

sánh thấy Đức Thế Tôn là bậc trác tuyệt, xuất chúng, ưu việt, không ai bì kịp về mặt

ân đức Tam Học, đáng làm gương mẫu: “Giới của Đức Thập Lực là như thế, Định là

như thế, Tuệ là như thế...”. Những lời của họ ca tụng ân đức của Đức Thế Tôn, không

miệng nào kể lại cho hết được.


Ni cô Rūpanandā lúc gần gũi các Tỳ khưu Ni và các Tín nữ nghe họ thường tán

dương ân đức của Đức Thế Tôn thì tự nghĩ: “Thiên hạ họ ca tụng anh ta thái quá như

vậy, thế mà một bữa nọ, anh ấy lại nói với ta về tội của sắc đẹp, có lẽ rồi anh sẽ đề cao

sắc đẹp! Chi bằng ta cùng đi chung với các Tỳ khưu Ni, nhưng ẩn núp đừng cho Đức

Thế Tôn thấy ta, để nghe Ngài thuyết Pháp”.


Khi ấy, Ni cô thổ lộ với các Tỳ khưu Ni rằng:


- Hôm nay tôi sẽ đi nghe thuyết Pháp.


Các Tỳ khưu Ni rất hoan hỷ dắt Ni cô ra đi, vì nghĩ rằng: “Quả thật lâu rồi

Rūpanandā không chịu đi yết kiến, hầu hạ Đức Thế Tôn, hôm nay lại đổi ý muốn

được nghe Ngài vì mình mà thuyết Pháp”.


Còn Ni Cô Rūpanandā, từ lúc khởi hành trở về sau, cứ nghĩ thầm rằng: “Ta sẽ

không bao giờ xuất đầu lộ diện!”.


Đức Bổn Sư biết trước rằng: “Hôm nay, Rūpanandā sẽ đến yết kiến Ta. Vậy Ta

nên thuyết Pháp nào thích hợp với cô ấy đây?”. Sau khi quán xét, Ngài thấy: “Cô này

chú trọng về sắc đẹp, quá ái luyến về thân xác của mình, như lấy gai lể gai, Ta cần

phải dùng đến một sắc đẹp để đè bẹp sự say mê sắc đẹp của cô mới được”.


Quyết định rồi, Bậc Đạo Sư dùng thần thông hoá hiện ra một giai nhân tuyệt sắc,

khoảng mười sáu tuổi xuân, mặc xiêm y màu đỏ thắm, toàn thân đeo đầy nữ trang rực

rỡ, một tay đang cầm quạt đứng hầu Ngài ngay khi Ni cô Rūpanandā vừa vào chùa.

Mỹ nữ ấy, chỉ có Bậc Đạo Sư và nàng Rūpanandā trông thấy mà thôi.


Ni cô này cùng các Tỳ khưu Ni vào chùa rồi thì đứng núp sau lưng các Tỳ khưu

Ni. Sau khi gieo năm vóc xuống đảnh lễ Đức Thế Tôn, cô ngồi xen giữa các Tỳ khưu

Ni mà nhìn Ngài từ dưới chân trở lên, thấy đầy đủ những tướng tốt và tướng phụ với

kim thân có hào quang toả rộng ra cả sải tay. Kế đến, Ni cô nhìn lên gương mặt tròn

đầy như trăng rằm của Ngài thì ngó thấy mỹ nữ đang đứng trong cái rạp. Nhìn mỹ nữ

rồi quay lại ngắm mình, Ni cô tự hạ ví mình như con quạ đen đứng trước con Hạc

chúa màu vàng ròng vậy. Từ lúc nhìn thấy mỹ nữ là người đẹp do thần thông hoá

hiện, hai mắt của Ni cô không rời đối tượng đó. Ni cô nghĩ thầm: “Chao ôi, tóc cô này

đẹp quá! Ôi, các tướng cô hảo quang minh! Khắp mình cô chỗ nào cũng sang quý, hấp

dẫn cả”. Ni cô sanh lòng yêu mãnh liệt nhan sắc đó.


Khi biết cô rất thích thú với đối tượng đó, Bậc Đạo Sư vừa thuyết pháp vừa

khiến cho cái sắc ấy vượt qua trạng thái mười sáu tuổi xuân lên đến hai mươi tuổi.


Ni cô Rūpanandā nhìn thấy sự thay đổi: “Quả thật, sắc đẹp này không bằng lúc

nãy!”. Từ từ, Ni cô bớt mê luyến sắc ấy.



Bậc Đạo Sư khiến cho cô mỹ nữ quạt hầu Ngài từ từ biến dạng, trở thành một

phụ nữ trung niên, rồi một bà lão và sau cùng thành một bà cụ già nua lụm cụm, gần

đất xa trời.


Ni cô cũng để ý, tuần tự nhìn thấy sắc đẹp xuân thời đã mất, sắc đẹp khi đứng

tuổi cũng đã mất, còn trơ lại cái hình hài trong tuổi già nua đáng chán, nào là răng

rụng, đầu bạc, lưng còm như cái sừng bò, tay chân run rẩy. Thấy thế Ni cô chán ngán

quá chừng!


Kế đó, Bậc Đạo Sư khiến cho bà cụ hiện ra cái tướng người bị bịnh nặng thắng

phục. Bỗng nhiên, bà cụ bỏ cả cây gậy và quạt, hét lên rồi ngã nhào xuống đất, nằm

lăn qua trở lại, lăn xuống đống phân và nước tiểu của bà ta. Ni cô thấy vậy sanh chán

ngán vô cùng. Đức Bổn Sư lại khiến cho bà cụ hiện lên cái tướng chết. Ngay khi ấy,

cái xác bà bắt đầu sình chướng. Theo chín lỗ, mủ và nước vàng rịn chảy ra, có giòi bọ

lúc nhúc, kên kên và quạ xúm lại rắt rỉa cái xác thúi!


Ni cô Rūpanandā vẫn theo dõi từng biến chuyển của đối tượng: “Phụ nữ này, ở

nơi đây, bây giờ đã già, bây giờ đang lâm bịnh, bây giờ đã chết. Cái tự ngã (xác thân)

của ta cũng sẽ phải già, bịnh và chết như thế chẳng sai!”. Nhờ vậy, Ni cô thấy được

Vô thường của Tự ngã (Attabhāva). Một khi đã thấy sự Vô thường như thế thì tự

nhiên cũng thấy luôn cả sự Khổ não và sự Vô ngã. Lúc bấy giờ, đối với Ni cô, Tam

giới ví như lửa nóng và giống như xác chết treo vậy. Tự nhiên, tâm Ni cô bám sát vào

đề mục bất tịnh hiện tiền ấy.


Đức Bổn Sư biết Ni cô đã thấy tướng Vô thường rồi, Ngài quán xem: “Cô có thể

tự mình cứu độ lấy mình chăng?”, Ngài thấy cô sẽ không thể tự độ mà phải cần có trợ

duyên từ bên ngoài. Do đó, Ngài thuyết pháp thích hợp với căn cơ của Ni cô và ngâm

những bài kệ này:


“Āturaṃ asuciṃ pūtiṃ,

Passa nande samussayaṃ.

Uggharantaṃ paggharantaṃ,

Bālānaṃ abbipaṭṭhiṭaṃ,

Yathā idaṃ tathā etaṃ,

Yathā etaṃ tathā idaṃ.

Dhātuye suññato passa,

Mā lokaṃ punarāgami.

Bhave chandaṃ virājetvā,

Upasantā carissatīti”.


Này Rūpanandā! Hãy quán vật phối hợp nên bởi các yếu tố, gọi là xác thân! Nó

chỉ là bịnh hoạn, bất tịnh, hôi thúi, có nước dơ hằng rịn chảy, bài tiết ra luôn. Thế mà

những kẻ ngu mơ ước! Hễ thân này ra sao thì xác ấy cũng sẽ vậy, xác ấy ra sao thì

thân này cũng sẽ vậy! Hãy quán Tứ đại, quán Không tánh, đừng trở lại Thế gian. Sau

khi xa lánh Hữu dục (sự muốn tái sanh vào Tam giới), cô sẽ bước đi bình yên.


Những bài kệ này đã được Đức Thế Tôn thuyết ra để chỉ cho Tỳ khưu Ni

Rūpanandā thấy rõ xác thân là phần tử rườm rà vô ích. Nhờ theo dõi thời Pháp của

Đức Đạo Sư, Ni cô phát sanh trí tuệ và đắc Dự Lưu quả.



Lúc bấy giờ Đức Bổn Sư thuyết tiếp theo về đề mục Không tánh (Suññatā) để

đưa tâm Ni cô đến ba đạo quả tối cao bằng pháp Minh Sát:


- Này Rūpanandā, đừng tưởng rằng trong xác thân này có lõi chắc thật. Đối với

người không dễ duôi thì trong đó không có lõi. Đó chỉ là một thành trì bằng xương

cấu tạo nên bởi ba trăm khúc xương mà thôi.


Nói rồi, Ngài ngâm kệ rằng:

 

“Aṭṭhīnaṃ nagaraṃ kataṃ, Maṃsalohitalepanaṃ; Yattha jarā ca maccu ca, Māno makkho ca ohito”.

Thành này làm bằng xương, Quét tô bằng thịt máu, Ở đây già và chết, Mạn, lừa đảo chất chứa.


Bài đăng gần đây

Xem tất cả

Comments


bottom of page