“Dīghā jāgarato ratti, Dīghaṃ santassa yojanaṃ; Dīgho bālānaṃ saṃsāro, Saddhammaṃ avijānataṃ”. | “Đêm dài cho kẻ thức, Đường dài cho kẻ mệt, Luân hồi dài, kẻ ngu, Không biết chơn diệu pháp”. |
Kệ Pháp Cú này Đức Bổ Sư đã thuyết ra khi Ngài ngụ tại Jetavana, đề cập đến một thanh niên nọ và đức vua Pasenadi Kosala.
Tương truyền rằng: Nhân một ngày quốc lễ, quốc vương Pasenadikosala vận đại triều phục, ngự lên một thớt bạch tượng thuần sắc, tên là Puṇḍarīkā (Bạch Liên), ngự du một vòng kinh thành với đoàn quân hộ giá tiền hô hậu ủng, đầy đủ vẻ uy nghi tráng lệ của bậc Đế vương.
Quần chúng đi xem lễ đông nghẹt các nẻo đường, tiếng nói cười nhộn nhịp, náo nhiệt. Họ bị quân dọn đường lấy đất, đá và gậy gộc đánh đuổi, tuy bị chạy tán loạn nhưng họ vẫn ngoái cổ lại nhìn. (Người ta nói rằng: Sở dĩ nhà vua được vinh hiển tột bực như thế, là do sự bố thí đầy đủ duyên trong quá khứ).
Ngày ấy, vợ một chàng thanh niên nghèo khổ nọ đang đứng trên tầng thượng của một tòa nhà bảy tầng, nghe tin tiếng có đức vua ngự qua thì mở một cửa sổ nhìn xuống, ngay lúc quốc vương cũng vừa ngước nhìn lên. Thiếu phụ vội thụt vào, đóng cửa sổ lại. Quốc vương nhìn theo ngơ ngẩn, như đang mong đợi mặt trăng rằm vừa khuất sau áng mây đen.
Tương tư một đóa hoa hèn, lòng quốc vương cảm thấy nóng nảy bồn chồn, ngồi chẳng vững trên lưng tượng, Ngài đốc thúc cuộc diễu hành quanh thành phố cho mau chấm dứt. Về đến cung đình, quốc vương phán hỏi một cận thần thân tín: “Lúc nãy, tại chỗ đó khanh có trông thấy tòa lâu đài mà trẫm nhìn lên không?”.
- Tâu bệ hạ, có thấy.
- Trong lâu đài ấy, khanh có trông thấy một nữ nhân không?
- Tâu bệ hạ, thần có thấy.
- Vậy khanh hãy đến đó hỏi nàng ấy có chồng chưa?
Viên hầu cận thân tín đi, rồi trở về tâu lại cho đức vua biết rằng: “Nàng ấy đã có chồng”. Quốc vương bèn ra lịnh: - Vậy khanh hãy triệu chồng nàng ấy vào triều cho ta.Vị quan vâng lịnh đức vua, gặp chàng thanh niên nghèo khổ, bảo rằng: “Lại đây bạn ơi, đức vua triệu bạn vào triều”.
Thanh niên nghĩ thầm: “Việc này e có liên quan đến vợ ta”. Không dám trái lệnh vua, thanh niên vào triều bái đức vua rồi đứng chờ.
Đức vua phán hỏi thanh niên: “Trẫm phong cho khanh làm thị vệ quân”.
- Muôn tâu bệ hạ, thần không dám nhận lãnh chức đó. Xin cho thần ở ngoài hành nghề, đóng thuế cho bệ hạ, thần chỉ quen với lối sống bình dân.
- Trẫm không cần đến tiền khanh đóng thuế. Kể từ nay về sau khanh hãy theo hầu trẫm.
Quốc vương ban cho thanh niên bộ võ phục, một lưỡi gươm và một cái khiên (mộc). Thanh niên nghĩ: “Nếu mình có điều chi sơ xuất với đức vua thì phạm tội khi quân, chẳng khỏi chết chém.
Ta phải lo sợ mới được”.
Vì sợ tội chết, thanh niên siêng năng hầu hạ đức vua. Quốc vương không tìm được lầm lỗi nào của thanh niên, thì lòng mong hưởng dục lạc lại càng tăng trưởng, nghĩ thầm: “Phải tìm cớ buộc tội hắn thì trẫm ngồi làm vua mới yên”.
Quốc vương liền triệu thanh niên đến và phán rằng:
- Này khanh, khanh hãy đi đến một địa điểm ấy, cách đây độ một do tuần, xuống sông hái nhiều hoa sen xanh và trắng, móc lấy đất đỏ như màu mặt trời mình minh, đem về đây vào buổi chiều cho kịp trẫm tắm. Nếu khanh để trì hoãn, không về kịp lúc ấy, trẫm cứ luật mà gia hình.
(Người ta bảo rằng: Thị vệ quân là chức thấp kém nhất trong bốn hàng tôi đòi. Quả nhiên, hạng làm mướn ăn tiền chẳng hạn, có thể lấy cớ đau bịnh, mệt mỏi mà xin nghỉ được. Còn thị vệ thì không được phép nghỉ, hễ lịnh vua sai khiến là phải thi hành chớ không được thoái thác).
Thanh niên suy nghĩ: “Nhất định là ta phải đi đến đó. Nhưng hoa sen xanh, trắng cùng đất đỏ như mặt trời bình minh chỉ có cảnh giới Long Vương, còn trên thế giới nhân gian ta biết tìm lấy ở đâu cho được”.
Càng suy nghĩ, càng sợ tội chết, thanh niên về nhà bảo vợ:
- Mình ơi! Cơm nấu chín chưa?
- Dạ thưa, mới vừa bắt lên nấu mình à!
Thanh niên không chờ cơm chín, liền nhấc xuống bảo vợ lấy vá xúc cơm chưa ráo nước, đổ vào giỏ, chan thêm canh nóng vào, rồi mang theo cất bước lên đường. Trong lúc đi đường cơm cũng vừa chín. Thanh niên sớt riêng ra một phần lớn, không rớ tay đến, chỉ ăn chút ít còn lại. Khi đang ăn, thấy một lữ khách đi đến, thanh niên nói: “Tôi sớt ra, chỉ ăn có chút ít, phần cơm này tôi không đụng đến, ông hãy lấy dùng đi”. Khách lấy cơm dùng.
Thanh niên độ xong bữa, còn chừa lại một nắm cơm đem bỏ xuống nước, rửa mặt súc miệng, la lớn rằng: “Cầu xin Long vương, Kim sí điểu và chư Thiên ngự nơi thủy quốc này hãy nghe tôi nói đây: Quốc vương ra lịnh khiến tôi thi hành việc này. Là đến đây lấy cho được sen xanh, sen trắng cùng với đất màu đỏ như mặt trời bình minh đem về triều. Tôi đã bố thí cơm cho người lữ hành được ngàn phần phước, tôi đã bố thí cơm cho cá dưới nước được một trăm phần phước nữa. Tất
cả bấy nhiêu phước báu tôi xin chia hết cho các Ngài. Xin các Ngài hãy đem hoa sen xanh, hoa sen trắng và đất màu đỏ mặt trời bình minh đến cho tôi”.
Thanh niên la lớn đủ ba lần như vậy. Long vương là chúa rồng ngự tại nơi đó, nghe tiếng của thanh niên:
- Chú em nói gì thế?
Thanh niên lặp lại y như trước.
- Chú hãy chia phước cho ta với. - Ông lão nói.
- Tôi xin chia phước đến ông, thanh niên đáp.
Sau khi bảo thanh niên chia phước hai ba lần như vậy rồi, Long vương đem hoa sen xanh, trắng và đất mặt trời màu bình mình tặng lại thanh niên.
Trong khi ấy, quốc vương tính thầm rằng: “Người đời có nhiều kẻ giỏi chú thuật. Nếu như gã ấy dùng pháp thuật mà kiếm được các món ấy, thì mưu cơ của trẫm không thể thành tựu”. Đức vua liền cho đóng kín tất cả cửa vào thành. Sau khi kiếm được hoa sen xanh, trắng cùng với đất đỏ, thanh niên vội quay về cho kịp giờ đức vua tắm gội, nhưng cửa thành đã bế chặt, không thể vào thành được.
Thanh niên yêu cầu tiếp xúc với thủ môn quan và bảo: “Mở cửa ra”.
- Không thể mở cửa được. Đức vua đã xuống chiếu truyền lịnh đóng hết các cửa thành Sāvatthī.
- Ta là Khâm sai (rajadūta) của đức vua. Hãy mở cửa cho ta vào. Thanh niên nói gì thì nói, các quan giữ cửa thành vẫn không mở cửa. Không vào được, thanh niên ngẫm nghĩ: “Bây giờ chắc hẳn mạng căn của ta đã tuyệt. Ta phải làm sao đây?”.
Thanh niên đặt cục đất đỏ lên đầu cổng thành, cắm mấy cành hoa lên cục đất, rồi cất tiếng la lớn lên rằng: “Hỡi dân cư ngụ trong kinh thành! Xin các vị hãy biết rằng việc nầy: Đức vua sai tôi đi công cán, tôi đã thi hành xong. Bây giờ đức vua cố ý ngăn trở không cho tôi vào, để có cớ mà giết tôi”. La to ba lần như thế, thanh niên lại nghĩ: “Ta đi đâu bây giờ? À! Chư Tỳ khưu có tiếng từ tâm, vậy ta hãy vào ngủ nhờ trong chùa”.
Quả thật những chúng sanh như thanh niên này, trong thời kỳ an vui không bao giờ nghĩ tưởng đến chư Tỳ khưu đâu, chỉ khi nào lâm vấp cảnh khổ rồi mới có ý muốn đi chùa. Thanh niên tự nghĩ:
“Ta không còn chỗ nào khác để nương nhờ” bèn đi vào chùa, kiếm một chỗ tiện nghi để nằm ngủ.
Đêm ấy trong hoàng cung, quốc vương không sao an giấc điệp, vì hình bóng của thiếu phụ vẫn ám ảnh tâm tư. Quốc vương chỉ mong trời mau sáng để xử tử thanh niên, ngõ hầu đoạt vợ của chàng. Cũng trong giờ đêm tối tăm ấy, dưới địa ngục đồng sôi, rộng khoảng sáu mươi do tuần, có bốn thanh niên bị đọa lạc xuống đó, đang bị nấu trong chảo dầu sôi, nổi lên chìm xuống như những hạt gạo.
Từ trên miệng chảo chìm xuống đến tận đáy trải qua một thời gian là ba muôn năm, lại trải qua ba muôn năm khác mới trồi lên tới miệng chảo. Bốn chàng ngóc đầu lên, thấy được nhau, mỗi chàng định nói bài kệ nhưng không nói kịp, mỗi chàng chỉ nói kịp một tiếng rồi lại bị chìm xuống, lộn đầu rơi xuống đáy chảo. Đang băn khoăn, thao thức, vào lúc nửa đêm, quốc vương mộng nghe được bốn tiếng la của tội nhân dưới địa ngục ấy, thì giựt mình kinh sợ, lo lắng tự nghĩ:
“Đây chắc là điềm báo cho trẫm hoặc hoàng hậu sẽ băng hà, hay là ngai vàng sẽ đổ nát…”.
Thế là suốt đêm hôm ấy, quốc vương không sao chợp mắt được.
Mặt trời vừa mọc, quốc vương cho triệu vị Quân sư vào triều và phán hỏi:
- Thưa quân sư, vào khoảng giữa đêm hôm nay, trẫm nghe có tiếng la thật lớn,
rất đáng kinh sợ. Trẫm không biết đó là điềm báo sự tai hại đến ngai vàng, đến hoàng
hậu hay đến chính bản thân trẫm. Cho nên trẫm mới triệu quân sư vào đây.
- Tâu đại vương, đại vương nghe được những tiếng gì?
- Thưa quân sư, trẫm nghe được bốn tiếng rời rạc là Du, Sa, Na, So. Xin quân sư
hãy giải rộng nghĩa lý của những chữ này. Vị quân sư Bà la môn như người đi trong đêm tối, chẳng nhận ra đường lối nào cả. Sợ thú thật mình không biết thì chứng tỏ mình là kẻ bất tài, sẽ mất cả uy tín và bổng lộc, ông ta bèn kêu bướng rằng: “Tâu đại vương, điềm này hệ trọng lắm”.
- Thưa Quân sư, điềm chi vậy?
- Đó là điềm tại họa có liên quan đến thọ mạng của đại vương. Quốc vương nghe lời bàn ẩu, tưởng chắc thật, càng thêm lo sợ bội phần, phán hỏi ông Bà la môn:
- Thưa Quân sư, có cách nào ngăn ngừa tai họa ấy được chăng?
- Tâu đại vương, có. Xin đại vương hãy bình tâm đừng có lo sợ. Hạ thần thông
suốt Tam Phệ Đà (Veda) mà.
- Cần phải làm gì để tránh tai họa?
- Tâu bệ hạ, phải hi sinh người và vật, mỗi thứ một trăm để cúng tế thì bệ hạ sẽ
tăng thêm tuổi thọ.
- Quân sư cần những gì?
- Trăm con voi, trăm con ngựa, trăm bò đực, trăm bò cái, trăm dê đực, trăm dê cái, trăm gà trống, trăm con heo, trăm đồng nam và trăm đồng nữ.
Như thế là, cứ mỗi loại chúng sanh, ông Bà la môn xin đức vua cho cắt đủ trăm,
vì ông nghĩ rằng: “Nếu ta xin bệ hạ bắt dân chúng nạp thú rừng thì họ nói là ta có ý
bắt để ăn thịt”. Nên ông mới xin đức vua cho bắt cả voi, ngựa và người vậy.
Quốc vương nghĩ thầm:
“Trẫm phải tiên bảo kỳ thân, tự mình lo cho bảo tồn sanh mạng mới được”.
Vua bèn hạ lịnh:
“Bắt tất cả chúng sanh cho mau”. Lịnh trên ban xuống, cấp dưới lập tức thừa hành, bắt vật hy sinh nhiều hơn số con đã ấn định. Trong kinh liên quan đến xứ Kosala, có đoạn liên quan đến việc ấy như sau:
“Thời ấy, quốc vương Pasenadikosala dự định cử hành đại lễ bằng sinh vật có năm
trăm con bò đực, năm trăm bò cái, năm trăm dê đực, năm trăm dê cái, tất cả đều bị bắt
cột chung chỗ xây cột tế, còn những nô lệ nam, nữ, những kẻ phục dịch, công nhân
của đức vua bị hăm dọa sợ đòn, mặt đầy nước mắt, vừa khóc vừa lo sắp đặt công việc
tế lễ”.
Dân chúng thương tiếc quyến thuộc của mình đã bị bắt, mạnh ai nấy khóc than
kể lể, tiếng kêu la ồn ào, hỗn độn, nghe như quả địa cầu có tri giác cũng biết xót xa
vậy.
Khi ấy, hoàng hậu Mallikā nghe tiếng dân chúng kêu la, bèn vào triều kiến đức
vua và hỏi rằng:
- Tâu đại vương, đại vương vẫn còn nguyên vẹn, đầy đủ lục căn, mà sao thần
thiếp trông đại vương lại có vẻ bơ phờ hốc hác như thế?
- Ái hậu Mallikā, hậu không hay biết rằng: “Trẫm muốn điếc con ráy rồi sao?”.
- Tâu bệ hạ, việc chi vậy?
- Ban đêm, trẫm nghe được những tiếng quái gở như vậy, trẫm cho triệu quân sư
vào hỏi thì quân sư cho biết đó là điềm tai hại đến tánh mạng của trẫm, phải cúng tế
người vật, mỗi thứ là một trăm thì trẫm mới được trường thọ. Trẫm nghe lời quân sư
để bảo tồn mạng sống, nên ra lịnh tìm bắt cho đủ tế vật để hy sinh.
Nghe vậy, hoàng hậu Mallikā nói rằng:
- Tâu đại vương! Đại vương thật là mù quáng, si mê. Dầu sao đại vương cũng là
bậc ăn trên ngồi trước, là chúa thiên hạ, hưởng lộc nhiều hơn cả mọi người, có lý nào
đại vương có trí kém cỏi như thế.
- Sao hậu lại nói vậy?
- Tại sao đại vương nghe chi lời của tên Bà la môn mù quáng, ngu si, tự mình muốn sống lại gây sự chết chóc cho kẻ khác, gieo rắc sự khổ sầu thảm khốc cho dân chúng như vầy? Trong chùa Jetavana gần đây, có Đức Bổn Sư đang ngự, Ngài là bậc Đại hùng, Đại lực, là Thầy của chư Thiên và nhơn loại. Các việc quá khứ, hiện tại, vị lai Ngài thông suốt cả. Đại vương nên đến học hỏi nơi Ngài.
Khi ấy, đức vua liền ngự lên chiếc loan xa nhỏ, cùng đi với hoàng hậu Mallikā
đến chùa. Trong tâm còn lo sợ chết, nên chẳng nói năng chi được hết. Quốc vương chỉ
đảnh lễ Đức Bổn Sư, rồi ngồi nép một bên.
Đức Bổn Sư mở lời, hỏi rằng:
- Kìa đại vương từ cõi trời hay cõi nào đến đây?
Quốc vương nghe vậy cũng làm thinh, không trả lời. Hoàng hậu Mallikā bèn đem mọi sự trình bạch lên Đức Thế Tôn:
- Bạch Ngài, đức vua nói rằng vào khoảng giữa đêm có nghe những tiếng quái dị, hỏi quân sư thì ông ấy cho biết là có điềm tại họa đến sinh mạng của đức vua. Nếu muốn ngăn ngừa phải bắt vật hy sinh mỗi thứ là một trăm, cắt cổ lấy huyết tế thần thì sẽ được trường thọ. Quốc vương đã sai bắt nhiều chúng sanh, vì vậy con hướng dẫn đức vua đến đây.
- Hoàng hậu nói thế có đúng không hở đại vương?
- Bạch Ngài, đúng thế.
- Đại vương đã nghe thấy những tiếng gì?
Quốc vương bèn nhắc lại những tiếng mà mình đã nghe. Đức Như Lai nghe vừa
dứt lời, thì đã hiểu rõ mọi sự như làn chớp xẹt một cách nhanh lẹ.
Ngài bèn vỗ an đức vua:
“Đại vương chớ có sợ hãi. Chẳng có việc chi tai hại đến đại vương cả, những chúng sanh tạo ác nghiệp muốn tỏ bày nỗi thống khổ của mình nên mới nói lên như thế đó”.
- Bạch Ngài, bọn họ đã làm gì?
Để giải rõ những nghiệp báo của bốn chúng sanh ấy, Đức Thế Tôn phán rằng:
“Thế thì đại vương hãy lắng nghe”.
Nói rồi, Ngài dẫn tích như sau:
Thời quá khứ, lúc tuổi thọ của loài người là hai muôn năm thì Đức Thế Tôn có hồng danh Kassapa giáng thế, Ngài cùng với hai muôn vị A la hán vân du khắp nơi, rồi ngự đến thành Bārāṇasī.
Dân chúng trong thành rủ nhau, từ hai ba người hay đông hơn nữa, cùng họp nhau luân phiên để bát cúng dường thực phẩm đến các khách Tăng.
Thời bấy giờ, trong thành Bārāṇasī có bốn vị công tử là con nhà Trưởng giả, nhà nào cũng có tài sản lên đến bốn trăm triệu đồng vàng. Họ giao du với nhau rất thân mật, họ thường hỏi nhau: “Nhà ta giàu có, tiền của ta để làm gì?”.
Trong thời Đức Phật đang tại thế, Ngài đang vân du khắp nơi, “chúng ta hãy bố thí, cúng dường, tôn thờ, lễ bái, hãy thọ trì Tam quy Ngũ giới…”, không có cậu nào đề nghị như thế cả.
Một cậu thì nói lên rằng: “Uống rượu nồng, ăn thịt béo rồi chúng ta sẽ thả rong chơi, đời sống chúng ta như thế cũng là thú vị lắm rồi”.
Cậu khác nói: “Phải đó, gạo thơm ngon như hoa ngọc lan, với nhiều món sơn hào hải vị, ta ăn rồi thả đi chơi”
Cậu thứ ba thì bảo: “Ta bảo đầu bếp nấu món cà ri thập cẩm có đủ thứ gia vị, ăn rồi ta sẽ đi chơi”.
Cậu thứ tư lại có ý kiến: “Này các bạn, ta sẽ chẳng nấu cơm nước chi ráo, ta sẽ đem tiền của ra cho thế thường, chẳng có nữ nhân nào lại chẳng ham tiền, hễ ta vãi tiền ra cám dỗ mua chuộc thì vợ con nhà ai mà thoát khỏi tay ta”.
- Hay! Hay!...
Tất cả bốn cậu đều chấp thuận đề nghị này, từ đó về sau hễ thấy phụ nữ có sắc đẹp thì họ bỏ tiền ra quyến rũ làm cho phải thất tiết mới thôi.
Họ phạm tội gian dâm như thế trong hai muôn năm, đến lúc chết bị sa xuống đại địa ngục A tỳ. Họ bị thiêu đốt trong đó suốt một thời gian không có Phật. Khi mạng chung do quả dư sót, họ lại
sanh lên địa ngục đồng sôi, có bề sâu là sáu mươi do tuần, từ trên miệng chảo chìm mãi xuống đáy là ba muôn năm, rồi trải qua ba muôn năm nữa mới trồi đầu lên miệng chảo.
Họ muốn nói nguyên một bài kệ mà nói không kịp, chỉ kịp mở miệng la lên có một tiếng rồi lộn chìm xuống đáy chảo. Đại vương hãy nói, đại vương nghe trước được tiếng gì?
- Bạch Ngài, tiếng DU.
Quốc vương chỉ nói ra vỏn vẹn có một tiếng vắn tắt mà Đức Bổn Sư bổ túc thành bài kệ như sau:
1. “Dujjīvitamajīvimhā, Yesanno na dadāmha se, Vijjamānesu bhogesu, Dīpaṃ nākamha attanoti” | “Xưa ta sống nhuốc nhơ, Chẳng bố thí bao giờ, Tuy có nhiều tiền của, Không tạo chỗ nương nhờ”. |
Sau khi giải nghĩa bài kệ trên cho quốc vương hiểu, Đức Bổn Sư hỏi tiếp:
- Tâu đại vương, lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư đại vương nghe được những
tiếng gì?
- Bạch Thế Tôn, nghe được những tiếng này…
Cứ mỗi lần đức vua đáp lời, Đức Bổn Sư lại bổ túc thêm ba bài kệ, theo thứ tự
như sau:
2. “Saṭṭhivassasahassāni, Paripuṇṇāni sabbaso; Niraye paccamānānaṃ, Kadā anto bhavissati”. 3. “Natthi anto kuto anto, Na anto paṭidissati; Tadā hi pakataṃ pāpaṃ, Mâm tuyhañca mārisā”. 4. “Sohaṃ nūna ito gantvā, Yoniṃ laddhāna mānusiṃ; Vadaññū sīlasampanno, Kāhāmi kusalaṃ bahunti”. | “Ta ở sáu muôn năm, Tròn đủ, nếu không lầm, Trong địa ngục thọ khổ, Chừng nào hết bị cầm”. “Không hết cũng không cùng, Không thấy chỗ cáo chung, Bởi xưa ta tạo ác, Tôi cùng với các ông”. “Nếu tôi được thoát thân Đầu thai làm thế nhân, Hiểu biết giữ đủ giới, Tạo thiện pháp nhiều lần |
Lần lượt đọc ba bài kệ và giải thích nghĩa lý xong, Đức Bổn Sư tiếp lời rằng:
- Tâu đại vương, bốn chàng đó, mỗi chàng đọc một bài kệ, mà đọc không kịp,
chỉ chờ mở miệng nói được một tiếng thôi, rồi chìm trở xuống trong lòng chảo vậy.
(Kể từ khi quốc vương Pasenadikosala nghe tiếng của bốn chúng sanh địa ngục
ấy, cho đến nay đã hơn hai mươi lăm thế kỷ mà họ cũng vẫn còn đang chìm xuống
mãi mãi như thế).
Nghe dứt thời pháp, đức vua phát sanh đại kinh cảm, đức vua nghĩ thầm:
“Nghiệp tà dâm quả thật là nặng nề thay! Đức Thế Tôn bảo rằng bọn họ bị thiêu đốt
trong lòng địa ngục suốt khoảng thời gian không có Phật, mãn kiếp lại tái sanh vào địa
ngục đồng sôi, bị nấu luộc sáu muôn năm như vậy, không biết đến thời gian nào mới